Trang chủ » Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm toàn tập

Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm toàn tập

Nguyễn Bỉnh Khiêm và các dự ngôn của cụ

Tiểu sử cụ:

Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 ( 1491–1585) được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.

Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số.

Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc cất ông lên làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ Trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.

Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542.

Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”. Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ- tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử,
Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính …

Ông mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.

Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”.

Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được).

Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông.

Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu:

“Lê tồn Trịnh tại”.

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.

La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài “Huyền cơ tham tạo hóa” (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa).

Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng

Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu
Nghìn năm sau như vẫn một ngày

GIỚI THIỆU CÁC BẢN

Bản nôm hiện ở các thư viện có nhiều, chưa ai ra công khảo cứu đầy đủ. Còn bản quốc ngữ thì nhiều. Sớm nhất là bản của Sở Cuồng do Quốc Học tùng thư ấn hành năm 1930, và bản Nam Ký năm 1945 . Ông Phạm Đan Quế đã giới thiệu khá đầy đủ về các văn bản Sấm ký toàn chép tay
trong thư mục Hán Nôm lưu trữ tại thư viện Hà Nội Khoa Học Xã hội (Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc Gia Hà Nội thì hiện nay còn bảy tài liệu chữ nôm sau đây có Sấm Trạng Trình (2) :

(1)-Bạch Vân Nguyễn Trình Quốc công lục ký 25 trang, ký hiệu VNB3
(2)-Trạng Quốc công ký: -2 quyển: VHV 1453/b – 36 trang; VHV 102; 32 trang.
(3)-Trình Quốc công sấm ký : 34 trang: AB345
(4). Trình tiên sinh quốc ngữ : 22 trang: AB444.
(5). Sấm ký bí truyền 34 trang; VHV 2261.
(6). Thiên Nam ngữ lục ngoại ký có phụ chép một số câu sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng
Thượng thư; AB192.
(7). Nhất tích thiên văn gia truyền VHV 1382 có một bài sấm nói là của Trạng Trình.

Ông cũng cho biết các bản quốc ngữ sau:

(1)-Bản quốc ngữ đầu tiên của Sở Cuồng trong Quốc Học tùng thư, Nam Ký xuất bản tại Hà Nội 1930; 53 trang, in tại nhà in Trịnh Văn Bích. Trong quyển Thư Mục Đông Dương (Bibliographie en l’ Indochine ), quyển V, xuất bản ở Đông Dương năm 1935, ông Paul Boudet có ghi” Bạch
Vân Am Thi Tập, văn thơ sấm ký của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm , recueilli par Sở Cuồng, Nam Ký Thư quán, 1930, Impr Trịnh Văn Bích- Coll Quốc Học Tùng Thư.

(2)-Phụ trương Khoa Học huyền bí của Tiểu Thuyết Nhật Báo do Mai Lĩnh xuất bản năm 1939
(3)-Đông Tây Tiểu Thuyết phát hành ở Nam Định, số Xuân 1940.
(4)-Sấm Ký, nhà xuất bản Đại La, Hà Nội 1948.
(5)-Sấm Trạng Trình của cư sĩ Minh Điền, nhà in Thái Bình, Saigon 1948.
(6)-Sấm ký của Bùi Xuân Tiến, Nam Ký Hà Nội, 1952.
(7)-Sấm Trạng Trình của Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1952.
(7)-Sấm Trạng Trình của Chu Ngọc Chi, Hưng Long, Hà Nội, 1954.
(8)-Trạng Trình của Phạm Văn Giao, Phạm Văn Tươi, Saigon, 1956
(9)-Trạng Trình Nguyễn BỈnh Khiêm, Thái Bạch, Sống Mới, Saigon, 1957.
(10)-Đại chiến thứ ba với Sấm Trạng Trình, Thiệu Nghĩa Minh; Phương Thảo, Saigon, 1964.
(11)-Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nostradamus của Nguyễn Duy Hinh; Dân Trí, Saigon; 1963.
(12)-Sấm Trạng Trình; trong Thành Ngữ, Điển tích, Danh nhân từ điển của Trịnh Văn Thanh,
Saigon 1966.
(13)- Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của Nguyễn Quân; Sống Mới, Saigon, 1974.

Chúng tôi đã sưu tập được một số Sấm Ký nôm và Quốc ngữ , tuy chưa đầy đủ, song từ số tài liệu tương đối này, chúng tôi có thể phân loại về xếp đặt thành các dòng. Chúng tôi cố gắng đi tìm ý nghĩa các bản sấm ký dù rằng việc đó là việc khó khăn, nhưng chúng tôi nghĩ với tâm thành và tinh thần khách quan là tạm đủ. Chúng tôi không chú ý lắm về các từ ngữ nôm Việt dịch khác nhau, đọc khác nhau hoặc đúng sai.

BẢN I : SƠN TRUNG 2011

TRÌNH QUỐC CÔNG KÝ
tủ sách cụ Nghè Bân, Sơn Tây

LỜI NÓI ĐẦU

Đây là bản nôm tìm thấy trong thư viện cụ nghè Nguyễn Văn Bân ( 1868- 1937.) Cụ nghè Nguyễn Văn Bân , sinh năm mậu thìn (1868), quê làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, đậu cử nhân khoa đinh dậu (1897), đậu tiến sĩ khoa tân sửu, năm Thành Thái 13 (1901), đồng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Sinh Sắc, và Phan Chu Trinh, hàm Hồng Lô tự khanh, sung Bắc kỳ thượng nghị viện , Tổng Đốc Hải Dương.

Cụ Nghè Bân ở Sơn Tây , gần làng Phùng, cùng huyện Thạch Thất với Phùng Thượng Thư cho nên bản này rất đáng tin cậy vì ngày xưa các cụ thường mượn sách nhau sao chép, nghĩa là bản này có thể là sao chép từ tủ sách quan thượng Phùng Khắc Khoan.

Đại tá Nguyễn Sùng đậu cử nhân luật bên Pháp, người Chàng Thôn, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, làm việc tại bộ Tổng Tham mưu quân đội VNCH, là tế tử của cụ nghè.

Khoảng năm 1985, gia đình đại tá Nguyễn Sùng, sang định cư tai Pháp. Trước khi đi, hai ông bà tặng tôi một số sách cổ, trong có bản Trình Quốc công ký và Phùng Thượng thư ký. Tôi giữ từ đó đến nay, chỉ nhìn qua rồi cất kín vì lúc bấy giờ tôi đang tập trung tư tưởng và thời giờ viết bộ Văn Học Sử Việt Nam. Vả lại lúc bấy giờ việc nước tang thương, ai cũng lo việc y thực và tìm tự do. Nay có bạn đọc hỏi về Sấm Ký, tôi bèn đem tất cả Sấm Ký Quốc ngữ mà tôi đã sưu tập và bản Nôm này trình làng. Như vậy bản nôm chép tay đã có khoảng hơn một trăm năm, mà tôi cất giữ cũng đã 25 năm, nay mới ra mắt độc giả.

Hôm nay xem kỹ, và sau khi so sánh các bản Quốc ngữ, tôi xin thưa với các độc giả vài điều:

1. Sấm Trạng Trình là có thực. Bản này có gốc tích rõ ràng từ một bậc danh gia ở Sơn Tây, đồng hương với Trạng Bùng, mà trạng Bùng lại là đệ tử của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hơn nữa, hơn 20 bản nôm trong các thư viện cũng là một thực thể mạnh, không thua gì Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du, trong đó có những dị bản, nhưng không thể phủ nhận sự hiện hữu của Trình Quốc Công ký.

2.Bản này giống phần thứ hai của Mai Lĩnh. Tôi chưa xem bản nôm AB 444 của Viện Hán Nôm Hà Nội, song có thể nghĩ rằng hai bản nôm này cùng nguồn gốc. Tuy nhiên, đọc kỹ thì thấy bản quốc ngữ của Mai Lĩnh và bản nôm này tuy ý từng câu, từng đoạn giống nhau, mà trong mỗi câu it nhất là có một chữ bị sửa . Tuy nhiên phần cuối bản nôm này ( từ câu 101) khác hẳn bản Mai Lĩnh.

Ottawa ngày 6-10-2010
Nguyễn Thiên Thụ

phiên âm

1.Vừa năm canh tý (1) xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa long câu (2) nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất (3) gian
5.Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chưng (4) giữ nước dân an thái bình

Kể từ Lạc Long đế kinh,
Thế cùng xem biết sự tình thấp cao.
Nhân vì biết được tơ hào
10. Truyền chưng chép vào chẳng tiếc làm chi.
Luận chung một tập kim thì (5)
Tướng tài coi gẫm, nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng doi (6) cho cần
15. Già nay cũng đấng hiên ngang

Biết chưng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân duẫn ( 7) mà đi
Sau thì chưa đến biết thì nói ra.
Tiếc thay hiền sĩ tuổi già
20. Phúc bằng Bành Tổ cùng là Thái Công
Thử cho tay thước ( 8) ra dùng
Tài này cùng hẹn anh hùng xem sao

Trên trời chỉn chín tầng cao
Tai nghe bằng một tơ hào (9) biết hay
25. Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù lỗi kiếp tiếc thay chưng đời

Dẫu hay tấn chước (10) ngàn lời,
Sinh phải lỗi đời ắt cũng có dư.
Chẳng sinh phải kiếp người ta,
30. Sinh ra phải kiếp quỷ ma nhà trời.
Nói ra thì lộ sự đời,(11)

Che nghe (12) cho phải lụy này,
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
35. Chờ cho nhân duẫn về sau
Ðến chừng đời ấy thật âu nhiều nàn
Trời sinh ra những kẻ gian,
Nhật dạ đạo kiếp suy tàn đông tây.
Quân nào thần ấy làm vày (13),
40. Thượng nhân bất chính hạ nay tác loàn.
Đua nhau bạo ngược làm càn,
Phá gia ba kẻ dân tàn khốn thay
Anh hùng gẫm được thời hay,
Xem chưng thời vận biết hay trong lòng.
45. Nam nhi có chí anh hùng,
Muốn làm tướng súy lập công chưng đời.
Thời xem tuần vận điềm trời,
Cơ mưu nhiệm nhặt nên trai anh hùng.
Đi tìm cho đến thánh công,
50. Để phù trợ trị nên công vẹn tuyền.
Trong ngoài cương kỷ cho bền,
Bốn phương điều vận cho yên trong ngoài.
Chờ khi chuyển đất động trời,
Bấy giờ mới biết mặt trai anh hùng.
55. Còn bận (14) thì náu chưa xong,
Nhân lực chẳng đoạt thiên công đâu là.
Ðời này những quỉ cùng ma
Chẳng phải người thế dân ta thiện hiền.
Trời cao đất rộng mông minh,
60. Ngu dân đâu biết chân tình đế vương.
Thế gian ai chẳng biết tường,
Thánh thời ở tại khảm phương tuần này.
Ấy là lục thất gian nay,

Tuần hoàn đã định đến ngày hưng vương.
65.Xem chưng tuần vận cho tường,
Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này.
Vua ngự thạch bàn xa thay,
Nhân (15) ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Chim kêu vượn hót vang lừng,
70. Ðường đi thỏ thẻ dặm chưng khôn ngờ.
Nhân gian vắng vẻ bằng tờ
Sơn lâm bát ngát đổ (16) nhờ khôn thay!
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận đợi ngày làm ăn
75. Phong đăng hoà cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc vân.
Khảm cung thời tiết mở vần,
Thực là thiên tử thánh nhân ra đời.
Anh hùng ai có chí tài,
80. Công phu chẳng ngại tìm đòi ra đi.
Tìm đi đến Bàn thạch khê,
Đất sinh thánh đế bên kia cuối làng.
Nhìn đi nhìn lại cho tường,
Do nay phỏng có sinh vương đâu là.
85. Chẳng tin thì đến bản gia,
Đất sinh thiên tử xem qua địa hình.
Bốn bề phong cảnh cực thanh,
Tả long triều lại uốn vành vũ khai.
Hữu thời cửu khúc giang nay,
90. Minh Ðường thất diệu ra bày tay coi
Trông xa thấy một đầu voi
Đầu cúi cuốn lại phục triều nguyệt sơn .
Ứng điềm thiên tử về chầu,
Tượng trời thánh đế thật âu trị dài.
95. Song thiên nhật nguyệt sáng soi,(17)
Sinh được tuổi ấy thật ngôi chẳng cầu
Ðến tuần hưng vượng về sau,
Chờ đến tam hợp thúc nhau mới làm
Khuyên người Ðông Bắc Tây Nam
100. Muốn làm tướng súy thì xem sấm này
Anh hùng lượng được thời hay
Chép làm một quyển để ngay chẳng mòn.
Ai nên bia tạc biển son,
Nguyện đem phúc vận tử tôn ơn nhờ.
105.Nay nhờ truyền bảo sau xưa,
Những câu nhiệm nhặt nên sơ tỏ tường
Tìm đi cho đến khảm phương
Hình dung thánh đế khiêm nhường từ bi.
Chính trung diện mạo uy nghi,
110. Râu rồng tóc phượng thật thì đế vương.
Nhìn xem cho biết tỏ tường,
Để hòa (mà) giúp rập đế vương tuần này.
Quân thần hội họp rồng mây,
Đạo trời hay chứa bàn tay nhưng là.

115. Cõi tiên thế giới đất ta,
Mông lung bốn bể ắt là giao lân.
Trời xui thiên tử vạn dân,
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Phò vua ra đến Tràng An,
220. Bao nhiêu ngụy đảng loài gian lại hiền.
Đời ấy những Phật cùng tiên,
Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.
Lục thất dư ngũ vạn xuân,
Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao.
225.Thấy sự thời để chép vào,
Lâu thời chẳng biết nói sao nên lời.
Ai mà độ lượng trí tài,
Công phu chẳng ngại tìm thôi đến này.
Phò vua vực trị trợ đời,
230. Ơn trên đức rộng cho trai ơn nhuần.
Vũ thời phong đại tướng quân,
Văn thời thất phẩm đại thần cao ngôi.
Trông ân đức rộng bằng trời,
Cả dung cho khắp thỏa người tôi con.
235. Chớ nề bạch ốc chu môn,
Nam nhi có chí khỏe khôn đều dùng,
Quân minh lại gặp thần trung,
Tướng vốn vô dùng điều dụng mới trai.
Trảo nha những đứng trí tài,
240. Bất văn thạch phụng nào ai biết gì.
Ai ai là chẳng nam nhi,
Sinh chẳng kịp thì nên muộn công danh.
Trông ơn đức rộng cao minh,
Tuất cập đến kẻ hết tình làm tôi.
245. Quân thần tướng tá giúp đời,
Quân minh thần hiệp mỗi điều cho tin,
Trợ phù nhà nước khoẻ bền.
Công phu kiếp trước hữu duyên cùng người.
Trời sinh lão tướng giúp đời,
250. Khai quốc cùng toại cho đòi khảm phương.
Khác nào thuở trước nhà Đường,
Quân minh lại gặp thần lương mới bền.
Đời xưa những đấng khá khen,
Đời nay những đấng tôi hiền ai so
255.Xưa trượng phu, nay cũng trượng phu,
Tài nay khá mượn tài xưa giúp đời.
Mong ơn trên trị chưng đời,
Chớ hề quên nghĩa phụ người công phu.
Sống thời ăn bổng lộc vua,
260.Thác thời ban cấp cho con thơ rày
Trận tiền hết sức, ra tay,
Cờ xây súng trỏ sắc rày ban cho.
Hoặc là tử trận đương cô,
Quan thời dân xã cấp cho bổng thờ.
265. Quân thời cấp ruộng điền tô,

Làm cho con cháu ơn vua đời đời.
Để cho nức lòng con trai.
Đến khi có giặc cho trai liều mình.
Thấy tặc nó hội phụng kinh
270. Anh hùng ai chẳng liều mình cướp nhau.
Sống thì chức trọng quyền cao,
Thác thì miêu duệ ân nhiều giàu sang.
Lập nên giềng mối kỷ cương.
Trong an ngoài cũng bốn phương thuận hòa,
275. Đâu đâu xướng thái bình ca,
Thiên thuận địa hòa, chủ quý thần vinh.
Tảo an thiên hạ thái bình,
Bây giờ sĩ mở lệ thư luật điều
Sĩ hiền biết bấy nhiêu điều,
280. Tiên bảo cùng sấm mỗi điều chép ra.
Khuyên người Nam Việt trai hiền,
Ai xem cho biết để mà làm công.

CHÚ THÍCH

(1). Các bản ghi giáp tí, nhâm tí nhưng bản này ghi canh tí. Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 sinh 1491 và mất năm 1585. Canh tí là năm 1540, nhâm tí là 1552; giáp tí là 1564. Năm canh tí là lúc ông 50 tuổi.
(2). Câu: câu là câu lơn, bao lơn, hành lang.
(3).Nguyên bản lục thất 六 七 ( lục thất nguyệt gian, lục thất niên gian) có lẽ cổ nhân dùng để chỉ lục thất 陸 室 nhà Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn 阮.
(4). Chưng: cũng như chi, sở là hư tự. Chưng ở đây là ở.
(5).Kim thời: thời nay.
(6). Doi: noi theo, theo dõi.
(7).Nhân duẫn 人允 : duẫn, doãn , chỉ Lê Chiêu Thống, vì trong chữ Thống có chữ Duẫn, Doãn; nói việc Lê Chiêu Thống theo quân Thanh trở về Thăng Long thì bị Nguyễn Huệ đem binh đánh tan, sau đó Nguyễn Ánh đem quân ra Bắc..
( 8). tay thước : Thước là thanh gỗ dài hơn một thước, rộng khoảng 3 hay bốn cm.Thước là vũ
khí của tuần phu ngày xưa.
(9). ti hào: ti là sợi tơ, hào là sợi lông, nói những điều nhỏ nhặt.
(10). Tấn chước: đưa ra mưu kế, kế hoạch.
(11).Đoạn này bị sót
(12).Che nghe : chẳng nghe.
(13).làm vày : làm tầm bậy, sai lầm. Vày trong nghĩa giày vò, vày vò, tà vạy.
(14). Bận: vướng bận, bận bịu; còn vướng bận, không thể ra cứu nước.
(15). Bản Mai Lĩnh ghi là Đại ngàn.
(16). Đỗ: ở đỗ, ở nhờ.
(17).Tuổi quý 癸.

BẢN II : * SỞ CUỒNG 1930 & MAI LĨNH 1939

1. Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ tập tành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5. Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ gây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề.
Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên
15. Ðông A âm vị nhi truyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
20.Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật
Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen
Sửa sang muôn vật cầm quyền
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25.Kìa liệt vương khí hủ đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
30.Khi sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy đạc điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở riếng ( giếng) mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35.Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cưu giận nhạn than
Dưới trên dốc trí lo toan
40.Những đua bán tước bán quan làm giàu
Thống ru nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có ý an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân

Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non
45.Dư đồ chia rẽ càn khôn
Mối giường man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi
Việc làm bất chính tơi bời
50.Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã gia ( giơ) ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
60. Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tám chúng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá , làng phân điếm tuần
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75.Nội thành hoảng hốt hư kinh
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
80.Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85. Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90. Bỗng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
95.Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105. Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau ăn rới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
110.Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này.

115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
120. Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

125. Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
130.Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Chọn Đẩu, Thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
135. Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Ðời này thánh kế vi vương
140.Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145. Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thánh long
Thánh nhân cư có thụy cung
150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.
155. Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
160.Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy, thần kinh
Ðược vào trận chiến mới rành biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến

170. Biết ray tay miệng biến? nói không
Ngõ hay gặp hội mây rồng
Công danh choi chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175.Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
180.Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng

185.Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tham ( tam ?) hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân.
Ðòi phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195.Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù thái thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá điền đầu khỉ cuối thu
200.Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả

Noi đàn dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215.Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thửa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng tổ cắn tranh
220.Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225,Nào ai đã dễ nhìn u
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
230. Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân
Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình
235.Bốn bề núi đá riễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh
240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau.
245. Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
250.Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để thấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255.Thần qui cơ nổ ở trời

Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
260.Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày) Tào khê
Có thầy Nhân thập đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265.Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270.Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275.Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
280.Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

281. Vừa năm giáp tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
285.Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
… . . . . . . . . .
… . . . . . . .
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi

290.Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân doãn mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
295.Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
300. Tai nghe bằng một ti hào biết hay
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305.Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ cho nhân doãn hết sau ,
310.Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt (ác?) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn

315. Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẫm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
320.Muốn làm tướng súy lập công chưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.
325. Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng

Còn bên thì náu chưa xong
330. Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335.Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340.Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345.Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
350.Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
355.Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
360.Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta.
365.Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông hồ sau
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370.Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến thời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm

Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này

375.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn

Kìa cơn gió thổi lá rung cây
380. Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385.Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay

Con mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
390. Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dù phần như ai
Vắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình.

395.Canh niên tàn phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình

Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ khởi đao binh
400. Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405.Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu

Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.

410.Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an.

Bảo Giang thiên tử xuất
415. Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
420. Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang

Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
425.Thất thập cổ lai xuân

Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
430.Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Man cổ đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trâm nhi bắc kinh
Ký mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
440.Chư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình

Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lường

450. Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại Ngưu lang
Mại dữ lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên dữ thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
460. Nhân nghĩa thùy vi địch.
Ðạo đức thùy dữ đương
Tộ truyền nhị thập ngũ
Vận khải ngũ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch thán hung hoang.
470.Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tái vô lường
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40)
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành.
Ðoài phương phúc điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân.
480. Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ ky phục kiến Ðường ngu thi thành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .

Nguyễn Bỉnh Khiêm

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0898 283 941