Trang chủ » LA HÁN TỰ

LA HÁN TỰ

LA HÁN TỰ
Hân Khởi
Hạnh Huệ
 dịch

(Tạp chí Phổ Môn số 251)

Vừa đến Giang Tây, liền kiếm La-hán Tự.

La-hán Tự phát xuất từ Cám Châu cũ. Đời nhà Thanh rất nổi danh. Người ta đồn rằng mười tám La-hán nhà Phật từng đích thân đến chốn này, để lại dấu vết rực rỡ. Trong bút ký, tiểu thuyết đời sau có ghi chép khá nhiều.

Nói về sự tích mười tám La-hán.

Ngoài thành phủ Cám Châu cũ có hai chùa, một là Xuất Thủy Tự, một là Hương Tích Tự. Hai chùa cách nhau hơn mười dặm, mà khí tượng lại khác xa. Trong khuôn viên của Xuất Thủy Tự có một cái mội nước cốt, nước giếng trong vắt ngọt ngào. Năm mội nước, nổi lên năm đóa hao sóng, hình thái giống hoa sen. Theo truyền thuyết là do năm con rồng hóa thành, nên gọi là Ngũ Long Tuyền. Chùa ấy cũng gọi là Ngũ Long Tự. Mội nước này rất có linh khí, có nhiều người đến trước thắp hương lễ Phật rồi mang ít nước trở về. Người ta đồn một hớp là bịnh lành. Cũng có người đàn bà không con, uống nước này bèn sanh một trai hay một gái. Việc nhiều, hấp dẫn thiện nam tín nữ trong khoảng vài trăm dặm. Ngũ Long Tự mỗi ngày người qua kẻ lại đông đúc náo nhiệt, muôn người chen lấn, khói hương nghi ngút xông tận trời cao. Người đối mặt nhau nói chuyện nghe chẳng rõ. Lại có một vị Khâm sai đại thần, đích thân đến chùa lễ Phật xin nước, và đựng hơn mười lọ nước lớn chở về kinh thành dâng lên Hoàng thượng. Nghe nói Hoàng thượng uống xong, thân thể mạnh khoẻ, trăm bịnh đều tiêu, do đó rất đẹp lòng, bảo rằng một ngôi chùa lại có nước trị bịnh thần kỳ, thật là ít có, liền viết ba chữ lớn Xuất Thủy Tự. Từ đây Ngũ Long Tự đổi thành Xuất Thủy Tự. Có lai lịch này rồi, Xuất Thủy Tự danh nổi như cồn, thiện nam tín nữ mỗi ngày rộn rịp không chịu nổi, Xuất Thủy Tự chỉ đành quy định thiện nam tín nữ lễ Phật lấy nước, nhất luật không được vượt quá nửa giờ, cũng chính là một giờ bây giờ. Mỗi một lần năm trăm người tiến vào, sau nửa giờ năm trăm người toàn bộ ra khỏi chùa, lại cho năm trăm người đợt thứ hai. Như thế từ sáng đến chiều cũng chỉ có thể tiếp đãi năm sáu ngàn người. Nhưng có rất nhiều người không cách nào vào chùa. Vì thế trong chùa lại quy định nửa giờ cho hai đoàn vào. Một ngày tiếp đãi vạn người. Nhưng cũng chẳng đủ, lại phải kéo dài giờ tiếp đãi đến nửa đêm. Xuất Thủy Tự có tín chúng lớn lao như thế, kinh tế dồi dào tự nhiên cũng chẳng cần nói. Người biết tình hình nói rằng Xuất Thủy Tự một ngày thu cả đấu vàng. Tiền bạc quá nhiều bèn sửa chùa. Xuất Thủy Tự mỗi năm càng rộng lớn, mỗi năm càng phồn hoa, mỗi năm càng giàu đẹp. Tăng hành khước toàn quốc nếu đến Cám Châu, ai cũng tìm đến Xuất Thủy Tự xin ở.

Hiện tại nói về Hương Tích Tự. Hương Tích Tự tọa lạc tại thôn Thành Điền. Hương Tích Tự là chùa cổ, theo truyền thuyết do Tùy Văn Đế xây dựng. Cũng vì duyên cớ của Xuất Thủy Tự mà chùa này vắng khách hành hương đã lâu, điện đường lâu năm không sửa chữa, chỉ đành để nó đổ nát, nơi nơi vách sụp tường nứt, Phật hoại tăng tàn, cỏ dại lấp đường.

Vừa mới lập xuân, một hôm trời chiều chạng vạng trước Xuất Thủy Tự xuất hiện mười tám tên ăn mày. Lúc này bầu trời mây đen dần phủ, gió lạnh hiu hiu. Bọn ăn mày y phục vốn đã mỏng manh, lại thêm quá sức lam lũ, khó mà chống cự nổi cái lạnh. Họ xin tăng nhân trong chùa cho ở nhờ một đêm, xin được một phần cơm nóng. Tăng trong chùa thấy đám ăn mày áo mặc chẳng đủ, cáu bẩn đầy người, liền không cho tá túc, đuổi họ ra. Ăn mày cứ năn nỉ mãi, nhưng vẫn chẳng được… Trong lúc nói chuyện, trên trời tuyết lại rơi, màu trời đen kịt. Bọn ăn mày nói, không cho ở nhờ thì thôi, bố thí cho cơm nóng canh nóng được không?

Bọn ăn mày không rời cửa chùa, làm trở ngại sự tham quan, đành báo lên trên. Trong chùa lại chạy ra mười mấy ông thầy, vị đứng đầu mắng bọn ăn mày:

– Đây là cửa Phật, là đất Thánh. Làm sao chứa được bọn ăn mày đòi cơm dơ dáy các ngươi? Mau mau ra khỏi cửa Phật.

Bọn ăn mày nói trời đã tối rồi, lại tuyết rơi, nên cho chúng tôi ở một đêm sáng sớm mai rời ngay, sẽ tìm chỗ mà đi.

Ông thầy đó một mặt đuổi xua, một bên trách mắng:

– Ở đây không có chỗ cho các ngươi, muốn ở thì đến chùa Hương Tích mà ở.

Mười mấy thầy đuổi đuổi xô xô, đẩy bọn ăn mày ra ngoài nửa dặm. Bọn ăn mày bỗng dưng ngước mặt lên trời cười thật to, múa hát mà đi.

Hồn nhiên mà đi
Chừ tùy duyên độ người
Từ bi để lòng
Chừ bổn phận thầy tăng
Công danh lợi dưỡng
Chừ vốn thuộc nghiệp ma
Nhân quả rõ ràng
Chừ Phật tại một tâm.

Mười tám tên ăn mày ẩn vào đêm đen, các tăng nhân trở về chùa Xuất Thủy Tự, thấy bên cửa chùa đông nghịt người vây quanh. Nhóm tăng nhân xen vào xem, chỉ thấy trên bức tường trắng cạnh cửa viết một câu:

Xuất thủy chẳng xuất tăng,
Chỉ lưu một tăng đốt nhang đèn.

Tăng nhân thất kinh, lập tức sai người chùi đi. Lại càng lạ, ngày cả khi cạo lớp vỏ tường đi, mất chữ đó vẫn rõ rõ ràng ràng. Trụ trì vội vã mời thợ đập bỏ bức tường, xây bức mới tô quét lại. Qua một đêm, mấy chữ nguyên xi đó lại rõ ràng xuất hiện trên vách. Trụ trì lại đập bức tường này cùng với cửa lớn không xây tường nữa, đổi lại làm bằng cửa gỗ sơn màu đen. Lòng nghĩ mấy chữ đó là chữ đen, dù có hiện lên, trên cửa đen cũng không cách gì hiện được. Chẳng dè cách một đêm, mấy chữ đó lại biến thành màu trắng, so với chữ trên bức tường trắng trước lại rõ ràng hơn, càng bắt mắt hơn. Rồi Ngũ Long Tuyền nước cũng đục ngầu, mùi hôi bốc lên. Ai uống phải nó cũng trên thổ dưới tả, cả tăng trong chùa muốn uống nước cũng phải đi gánh từ giếng trong thành.

Tiếp đó trong chùa việc tai họa xảy ra liên miên. Trước tiên là một vụ án mạng. Dưới hương án của Đại hùng bảo điện, phát hiện hai đầu người một nam, một nữ trong bao bố đen. Kế đó bọn giặc bị bắt ở kinh thành cung khai ba năm trước trong lúc bị quan quân vây bắt, tên thủ lãnh của chúng đã lọt lưới, xuất gia tại Xuất Thủy Tự, cạo đầu làm tăng rồi. Lần này nhà vua nổi cơn thịnh nộ, nghiêm lệnh cho hữu ty điều tra Xuất Thủy Tự. Quan viên địa phương lập tức đến lục soát chùa, bao nhiêu của cải tích chứa nhiều năm đem sung công nhập vào quốc khố hết. Gần cả ngàn tăng không còn lý do được cúng dường, lại thêm một ngày bị ba lần kinh động, liền rần rần thu xếp hành trang, lên đường đi nơi khác. Điền sảng miếu đường to lớn lại bị quan phủ thu làm doanh trại quân lính. Chỉ lưu lại Đại hùng bảo điện, để tăng nhân còn lại làm Phật sự. Do vì sự cúng dường quá khó khăn, không bao lâu chỉ còn một ông thầy già bịnh hoạn ốm yếu, cô đơn linh đinh lo việc hương hỏa cho chùa. Xuất Thủy Tự bị tiêu mất.

Lại nói về chùa Hương Tích.

Chùa Hương Tích có ba vị tăng. Chùa chiền tuy cũ nát, nhưng điện Phật và chỗ ở lại sạch sẽ thanh tịnh. Đây là do sức thanh tịnh mà được chứ không do tiền bạc. Trong chùa, đất trống trồng một ít rau cải, để phụ thêm. Ngoài chùa có vài mảnh ruộng xấu. Ba vị tăng ra sức lao tác, lo phần ẩm thực. Chùa tuy nghèo nàn, ba vị tăng lại ưa thích bố thí làm lành. Mỗi lần có người gặp nạn, hoặc ăn mày, đều cực lực quan tâm. Như thế về sau tuy không có thiện nam tín nữ, mà người cầu xin bố thí lại như nước nhỏ mà dòng dài chảy mãi. Ba người hằng ngày bèn trên tuyết thêm sương, càng thêm gian nan. Có lúc hết gạo củi, ba người liền nhập thất, ngồi thiền một lần nửa tháng hai mươi ngày, chân chính lấy thiền duyệt làm thức ăn.

Lại nói chiều hôm ấy, trong tuyết bay bời bời, ba vị tăng đã sớm tu khóa chiều, ngồi thiền xong. Chợt có mười tám ăn mày đến. Ba vị Hòa thượng thấy vẻ đói lạnh bức bách của mười tám người, liền vội vàng đứng lên. Mau mau đốt một đống củi để mười tám người ấm thân trước đã. Sau đó đốt đuốc thông. Một người xuống bếp làm cơm, hai người đi gở bản cửa các phòng. Ba người dồn vào một phòng, nhường phòng ốc trong chùa lấy ra mười tám bản cửa, gom rơm làm nệm. Ba vị tăng lại đưa ra bốn nệm bông. Đêm lạnh như thế bốn cái nệm bông làm sao giữ ấm mười tám người? Sau khi thương nghị, ba người liền đem cái giường duy nhất của chính mình ra nhường. Năm nệm bông chỉ đủ cho năm người, còn mười ba người thì làm sao đây?

Lão Hòa thượng Trụ trì tuổi quá bảy mươi liền chỉ thị cho một tăng ở nhà lo cơm nước, chính mình với vị tăng kia đêm khuya đi hóa duyên.

Hai người xông gió đội tuyết tiến vào thành, mọi nhà đều cửa đóng then gài, đèn đuốt tắt hết. Hai người không thể làm kinh động quá nhiều nhà, liền đến phủ của Quán sát họ Vương.

Lại nói vị Vương Quán sát vì trời lạnh tuyết lớn, đã đi ngủ sớm rồi. Lúc người nhà thông báo, Vương Quán sát chính đang nằm mộng, thấy mười tám La-hán giáng lâm xuống phủ đệ, chói lọi huy hoàng. Các La-hán tay nâng một biển vàng vuông, trên biển khắc tám chữ lớn: Lạc thiện hảo thí tất hữu hậu phước (Vui làm lành ham bố thí ắt sẽ có phước về sau). Người nhà thông báo, người tiểu thiếp nằm bên cạnh dậy trước, lay Quán sát tỉnh giấc. Quán sát nghe nói có Hòa thượng đêm khuya đến mượn mền nệm, rất kinh ngạc, liên tưởng đến giấc mộng vừa rồi, thầm cho là lạ lùng, Liền mũ áo bước ra, thấy Hòa thượng, hỏi ra mới biết có mười tám khách hành hương đến chùa. Quán sát lại thêm một lần ngạc nhiên, tỉnh hẳn cơn mê, vội sai người gom góp mười ba mền bông. Đem một chiếc xe bò chở mền đi.

Hai vị tăng về đến chùa, mười tám ăn mày đều đã ngủ. Để ngừa lạnh, vị tăng ở nhà đã đốt lửa tại mỗi phòng. Vì đề phòng lửa tắt, vị tăng đi tuần xem xét không ngừng, thêm củi bớt lửa. Bây giờ có mền, ba người liền đến từng giường đắp cho các ăn mày. Rồi tắt lửa các phòng, trở về phòng mình.

Hòa thượng Trụ trì ngồi nhìn bồ đoàn, thở phào một hơi dài, cười nói:

– Tính lại làm xong mọi việc, ta lại mất công toi đêm nay.

Hai Hòa thượng cũng cao hứng, liền tính chuyện cơm cháo sáng mai.

Trong chùa không có nhiều lương thực đã lâu. chỉ còn chưa được một thăng gạo, hai vắt mì. Thăng gạo no được sáu người, hai vắt mì cũng có thể no được bốn người. Còn tám người nữa kiếm đâu ra? Lúc này mà vào thành làm phiền Vương Quán sát, thì không ổn thỏa. Ba người suy tính một hồi. Lão hòa thượng Trụ trì nói, nếu như thêm một ít rau rác, gom nấu một nồi cháo có đủ cho mười tám người ăn không?

Nghĩ lại chỉ có một lối này. Ba người liền đốt đèn ngồi thiền.

Gió lạnh thổi lùa cửa sổ giấy, tiếng nghe phần phật. Lửa trong nhà dần dần tàn lụi, Lão hòa thượng hé mắt, thêm vài lẻ củi vào lửa, nhè nhẹ thổi hai cái. Trong lửa tàn lại bốc lên một làn khói xanh. Lão hòa thượng lại cúi mình, thổi một hơi dài. Tro củi trong tàn lửa bừng lên, sáng khắp cả nhà. Trong tiếng thổi lửa phù phù, mồi lửa bốc lên. Lão hòa thượng lắng nghe động tĩnh bên ngoài, tiếng sa… sa… biết tuyết rơi nhiều. Ông nghĩ, ngày mai sau khi ăn sáng, ba người phải vào thành hóa duyên. Nhưng mười tám người mỗi bữa cần ba thăng gạo, thêm ba người của họ là bốn thăng. Một ngày hai bữa là tám thăng. Đây là số lượng không nhỏ, đi đâu kiếm ra lương thực nhiều như thế?

Lão hòa thượng gặp khó rồi.

Ngay lúc Lão hòa thượng đang suy tới nghĩ lui, một mặt coi sóc củi lửa, một mặt nhớ lại xem các cư sĩ trong thành có nhà nào hơi giàu khá. Cuối cùng Lão hòa thượng than một tiếng, xem lại đành phải dựng da đầu lên mà tìm Vương Quán sát một lần nữa.

Tiếng gà đã gáy. Lão hòa thượng thêm vài nhánh củi vào lò, nhắm mắt ngồi một chặp, thấy giấy cửa sổ đã có một chút mờ mờ trắng, liền đứng lên nhẹ nhẹ mở cửa. Gió lạnh tuyết rơi nhất tề thốc vào phòng. Trong ánh sáng mờ của chiếc đèn lồng, thấy tuyết bay tới tấp. Sân chùa tuyết dày nửa thước. Hòa thượng Trụ trì đóng cửa lại, ngồi lên bồ đoàn một lần nữa, kéo trong lò mấy cành củi ra bảo hai thầy kia, trời muộn rồi chúng ta đi thôi!

Ba tăng nhân cầm cuốc ra cửa phòng, đạp trên tuyết dày đến gần đường, theo lỗ hổng của tường viện hướng về mấy mẫu ruộng xấu mà đi. Mùa này, đất đai đã chẳng có gì, thật là có mấy phần đất có một chút hồng trong tuyết. Nhưng trong đất một mảnh tuyết trắng phau phau. Ba người cầm cuốc, hắt lớp tuyết phủ. Vừa vung cuốc, bên tai ba người văng vẳng một tiếng từ xa vọng đến:

– Đừng cuốc nữa, chúng ta đi đây!

Ba người ngạc nhiên quay đầu, bầu trời đã có một chút ánh sáng. Trên tuyết trắng phau phau, trong màng tuyết mang mang, chỉ thấy một đoàn bóng đen, bay vùn vụt như chim hồng, từ trong chùa phiêu dật về phương xa.

Ba người trong nhất thời ngây người ra nhìn. Một lát sau, Hòa thượng Trụ trì mới sực tỉnh lại. Không phải là mười tám người đã đi ư?

– Chúng ta trở về xem trước đã! – Hòa thượng Trụ trì nói.

Ba người không về theo lối cũ mà hướng về cửa chính của chùa mà đi. Đó là đường đi của đoàn bóng đen. Kỳ quái là trong ngoài cửa chùa, không có một dấu chân. Đất tuyết bằng phẳng tĩnh lặng. Ba người lấy làm lạ lùng, sáu mắt nhìn nhau. Hòa thượng Trụ trì thất kinh nói chẳng ra lời, chỉ phất tay vào chùa.

Ba người chảy thẳng vào chỗ ở của ăn mày, chỉ thấy trên mặt đất tro củi dồn đống, trên giường chẳng có bóng người. Hòa thượng Trụ trì áo não nói:

– Chúng ta hôm qua quên bảo họ, sáng nay dùng cơm rồi hãy đi. Trời tuyết lớn thế này, bọn họ có thể đi đâu chứ?

Hai vị tăng chỉ biết kinh ngạc không thôi.

Ba người ăn sáng xong, liền muốn đi ngủ. Lúc này trong thành, Vương Quán sát dẫn người đến. Nguyên do Vương Quán sát cả đời chỉ sanh bảy cô con gái, không có được một đứa con trai. Điều này trở thành một khối tâm bịnh của Vương Quán sát. Tối hôm qua cho mượn mười ba mền bông rồi, lúc đi ngủ lại, bèn thấy mười tám La-hán lại chói lọi huy hoàng hiện đến trước mặt. Một vị La-hán nói: “Ngươi vốn một đời không có con trai, nghĩ ngươi tối nay có một niệm lành, sẽ ban cho ngươi một đứa con. Từ nay về sau đừng khởi việc ác, nếu niệm niệm hướng thiện, thành tâm hộ pháp thờ Phật, con ông có thể đảm bảo không việc gì, tương lai môn đình rực rỡ.” Nhân vì trong một đêm mà hai lần mộng thấy La-hán, Vương Quán sát trong lòng chấn động kinh hãi, liền sáng sớm đội tuyết cỡi xe đến chùa Hương Tích.

Ba vị tăng tiếp đón Vương Quán sát, kể lại tình huống mười tám tên ăn mày mà ngủ nhờ đêm qua. Một hàng người liền đến chỗ của ăn mày ngủ xem xét. Ba vị tăng thu thập mền nệm định trả về cho Vương Quán sát. Rũ rơm ra, trên tấm bản cửa rõ ràng in một bức tượng La-hán linh động như sống. Ba vị tăng và nhóm người của Vương Quán sát cả kinh, vội vàng lật hết mười bảy giường cỏ còn lại, chỉ thấy trên mỗi tấm bản cửa đều rõ ràng in một tượng La-hán và bên gối của mỗi giường đều có để lại một cuốn kinh. Cầm lên xem chính là kinh La-hán. Vương Quán sát kính cẩn quỳ xuống, miệng niệm “A Di Đà Phật”, khẩn đầu lạy không ngớt, vì tượng mười tám La-hán này giống hệt La-hán mà ông ta thấy trong mộng.

Vương Quán sát tự nhiên không lấy lại mền, cả bò và xe cũng bố thí luôn, rồi ngay đó bàn bạc với ba vị tăng, ông sẽ bỏ tiền, bỏ lương ra, mau mời thợ y theo hình La-hán trên bản cửa, đúc thành tượng. Đồng thời xây dựng lại Đại Điện La-hán Đường làm chỗ thờ La-hán. Từ đây đổi Hương Tích Tự thành La-hán Tự.

Sự tích mười tám La-hán đến Hương Tích Tự, theo gió xuân bay khắp một vùng đất một trăm dặm. Tiếng tăm của Hương Tích Tự chợt như mầm lúa ra khỏi đất, tại trong lòng người ta đón gió mà lớn lên. Thiện nam tín nữ nghe gió mà đến, tiền vật bố thí chất chồng như núi. Để kỷ niệm sự tích mười tám La-hán đến chùa, giữ gìn lại phòng cũ của Hương Tích Tự, khai đất mới, đất cây cùng dựng. Chẳng qua nửa năm, bên cạnh Hương Tích Tự hoàng tàn đổ nát, một La-hán Tự lộng lẫy huy hoàng bạt đất mà nổi lên. Điều lạ lùng nhất là ngày tượng La-hán được đúc xong, những hình La-hán trên bản cửa bỗng biến mất. Tiếp đó lại xây dựng Tàng kinh lâu, đem kinh La-hán chất vào đó, tăng nhân cư sĩ gần xa, đến tìm xem không có ngày rảnh.

Tiểu thiếp của Vương Quán sát đến ngày Đông chí sanh được một con trai, rất vui sướng, đem gia đình, đến La-hán Tự để hoàn nguyện. Thuận tiện xin quy y với Hòa thượng trụ trì, làm cư sĩ, đồng thời thỉnh một bộ kinh La-hán, rước về nhà, bọc gấm, kính cẩn trì tụng. Hôm sau lại lấy ra tụng thì đã mất. Vương Quán sát sợ hãi tay chân cuống cuồng, mắt trợn miệng đớ ra, mặt trắng bệt như tờ giấy, bèn tụ họp cả nhà, đi kiếm tứ tung, mà không dấu vết. Vương Quán sát chẳng dám chần chờ, vội đến La-hán Tự, tạ tội trước mười tám La-hán, lại đến Tàng kinh các tạ tội. Tiến vào trong Tàng kinh các, Hòa thượng Trụ trì và Vương Quán sát cùng phát hiện bộ kinh Vương Quán sát thỉnh, vẫn y nguyên tọa lạc trên giá kinh, cả gấm bọc của Vương Quán sát, thậm chí kiểu cách, ngay lệch cùng với cái Vương Quán sát đích thân làm không khác một mảy. Vương Quán sát kinh hãi mồ hôi tuôn ướt mặt, sợ sệt quỳ xuống dập đầu rồi dập đầu phát thệ trọn đời làm Hộ pháp cho La-hán Tự. Về sau con ông lớn lên, đậu Tiến sĩ, Vương Quán sát bảo cho con biết cậu ta là đứa bé mà mười tám La-hán đưa đến, dặn con kế thừa nghiệp cha, trọn đời làm Hộ pháp cho La-hán Tự. Rồi thì cậu ta lại vì chùa La-hán tạo ra vô số công đức.

La-hán Tự hưng long rồi. Hòa thượng thành trụ trì. Tuy chùa giàu đủ nhưng Ngài vẫn ở phòng cũ Hương Tích Tự hồi đó. Mấy mẫu ruộng xấu xí kia, Ngài cũng đích thân dẫn tăng chúng cày cấy. Tâm thích thiện, ưa bố thí cũng y hệt thời Hương Tích Tự.

Ba năm sau cũng vào mùa đông lạnh, lại gặp tuyết lớn bay tới tấp. Một vị lão tăng đến La-hán Tự, xưng tên muốn gặp Hòa thượng Trụ trì.

Người đến chính là Hòa thượng Trụ trì cũ của Xuất Thủy Tự.

Tục ngữ nói: “Hòa thượng đầu biến địa lưu” – đầu Hòa thượng trôi khắp đất (?). Gặp Hòa thượng Trụ trì, nguyên Trụ trì Xuất Thủy Tự liền cúi lạy, Lão hòa thượng Trụ trì chẳng dám chậm trễ cũng dập đầu nghinh đón. Hai người đứng lên rồi, nguyên Trụ trì Xuất Thủy Tự mới tự báo lai lịch, nghiên cứu kỹ chi tiết hưng khởi của La-hán Tự, nghe sự tích mười tám ăn mày rồi, nguyên Trụ trì Xuất Thủy Tự than dài một tiếng, nín thinh hồi lâu, mới nói:

– Hương Tích Tự cũ của quý thầy cùng với Xuất Thủy Tự chúng tôi tuy gần trong gang tấc, tôi lại chưa hề bước chân qua, chỉ nghe đồ đệ nói hoài, cười nhạo Hương Tích Tự hư hoại. Tôi cũng chỉ cười, thực tại có ý hý hửng mừng thầm. Lúc đó Xuất Thủy Tự nhổ một sợi lông cũng có thể giúp nhiều cho Hương Tích Tự, mà lão nạp tôi lại không hề có một chút ý này. Nhưng Xuất Thủy Tự ngày một giàu có thì tâm Phật của Tăng chúng ngày một tiêu ma. Cuối cùng chỉ còn có tâm tiền, mất sạch tâm Phật. Mỗi ngày đốt hương lễ lạy, tụng kinh niệm Phật, cho đến khóa sớm khóa chiều trong cốt tủy cũng đều vì muốn lừa gạt tín chúng, cầu lấy tiền tài. Nhìn thấy mười tám ăn mày, liền ghét bỏ bần cùng dơ dáy, không một mảy may có lòng lân mẫn hướng thiện. Nhìn không ra mười tám người áo đơn trời lạnh, lại gặp đêm tối, nếu đuổi họ đi, sống chết thế nào? Tôi mấy năm nay hành khước bên ngoài, ăn gió nằm sương, vào khắp danh sơn, chùa lớn. Khắp nơi nghe nói có La-hán Tự nổi danh thiên hạ, tôi lại chẳng tin. Lão nạp này ở Cám Châu mấy mươi năm, chưa hề nghe nói có La-hán Tự. Chỉ là La-hán Tự danh vang mỗi ngày như sấm rót vào tai, năm nay mới trở về Cám Châu, muốn coi đầu đuôi ra sao. Vừa bước vào địa giới Cám Châu, mới biết La-hán Tự là Hương Tích Tự ngày xưa. Lão hòa thượng tức là Phật sống ở đời. Lão tăng vạn dặm hành khước, lại chẳng biết Phật sống ngay trước mắt. Đến nay nghĩ lại thật là hổ thẹn muôn bề.

Hòa thượng Trụ trì La-hán Tự nói:

– Lão tăng đâu dám nhận hai chữ Phật sống. Một đời xuất gia chỉ là muốn rửa sạch ba chữ tham sân si mà thôi. Ít đi một chút ngã chấp, trừ đi tướng ngã nhân, tu được tâm địa một mảnh trời xanh, muôn dặm không mây. Chỉ thế mà thôi, thực tại khó theo kịp bóng dáng đại đức của tiền bối.

Có một chút này đã đủ rồi – Hòa thượng nguyên Trụ trì Xuất Thủy Tự nói – Tôi đến La-hán Tự đã im lặng xem xét nhiều ngày. Vì khí tượng ngày nay của La-hán Tự, lão Phật sống lại ở phòng cũ này, ngày ngày canh tác. So với lão nạp năm đó hào hoa thật là như trời với đất. Hạc rừng không lương thực trời đất mênh mông. Bất kể bề ngoài giàu nghèo, trong lòng lão Phật sống không lương thực. Hồi đó Lão tăng là để ngoại duyên nắm chặt hết nội duyên, mất hết bổn tâm, để tâm kim tiền đè chết tâm Phật, do đó mới kinh động chư vị La-hán. Tôi nghĩ rằng các vị La-hán giáng lâm đến Xuất Thủy Tự cũng là vì muốn cứu vớt chúng tôi nhảy ra khỏi hầm lửa, lại không dè chúng tôi thuốc lại chẳng cứu được như thế, ngược lại bị tăng nhân chùa tôi ác ý đuổi xô. Lúc đó nếu có người nói với tôi, tôi cũng chẳng cho là đúng. Mỗi ngày tín chúng vạn người vào ra, mười tám người có đáng chi? Đợi đến lúc có chữ trên tường vôi ngoài cửa chùi chẳng đi, tôi mới suy nghĩ ra có chỗ chẳng ổn. Như nay Xuất Thủy Tự điêu tàn chỉ còn có một thầy hương đăng.

– Bất luận làm cái gì, không chấp trước mới tốt.

– Chỉ có một câu này của lão Phật sống, đã là đến thẳng tâm Phật.

– Lão Trụ trì nói đùa!

– Không phải. Lão Phật sống một tâm lúc ở Hương Tích Tự và một tâm ở La-hán Tự bây giờ, không biến đổi mảy may, trong sáng thanh tịnh, một hạt bụi chẳng nhiễm, đây há là việc mọi người dễ dàng làm được. Tôi trở về lần này, cũng chỉ vì muốn được ở La-hán Tự, làm một vị tăng tầm thường, theo hầu bên cạnh lão Phật sống, tu hành lại từ đầu, nếu ngày nào khai ngộ được chút ít, cũng chẳng uổng một phen xuất gia, một đời làm tăng vậy.

– Lão Trụ trì Xuất Thủy Tự lưu lại chùa, trụ ở phòng cũ bên cạnh Lão Hòa thượng Trụ trì La-hán Tự. Lão hòa thượng Trụ trì đêm không nằm ngủ, điều này khiến Trụ trì Xuất Thủy Tự rất là khâm phục. Ban ngày, La-hán Tự để lại hai ba tăng tiếp xúc với thiện nam tín nữ, mở trai phạn lớn tiếp tế người nghèo khổ. Còn các vị tăng khác thì tĩnh tâm trong thiền phòng, trang nghiêm tu trì. Nguyên Trụ trì Xuất Thủy Tự trải qua một phen khổ nhọc, kiên định được tâm Phật, dũng mãnh tinh tấn. Cuối cùng đã cùng với Hòa thượng Trụ trì La-hán Tự song song thành Chánh quả. Chẳng qua, đây đã là một chuyện sau rồi.

https://www.chuabuuchau.com.vn/van-hoa/su-tich-thap-bat-la-han_29522.html

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0898 283 941